Chị Mai có hỏi: “Con tôi năm nay 5 tuổi, cháu vừa được chẩn đoán tăng động giảm chú ý. Xin hỏi bệnh tăng động có di truyền không bởi bố của cháu trước đây cũng từng có dấu hiệu của hội chứng này? Tôi đang rất lo lắng vì sợ rằng sau này đứa thứ hai nhà tôi cũng bị như vậy?”
Để giải đáp cho thắc mắc của chị Mai cùng rất nhiều bậc phụ huynh khác, các chuyên gia tâm lý bệnh của chúng tôi xin phép được trả lời như sau:
Bệnh tăng động có di truyền không?
Cho đến nay, có khoảng 1.800 nghiên cứu đã được thực hiện nhằm giải đáp câu hỏi “Bệnh tăng động có di truyền không?”, những nghiên cứu này đều được đánh giá trên nhiều gia đình khác nhau, tập trung vào các gen cụ thể hoặc sàng lọc toàn bộ gen để tìm ra mối liên kết với chứng tăng động giảm chú ý. Kết quả cho thấy: “Gen di truyền chiếm 70 – 80% nguy cơ gây rối loạn tăng động, ước tính trung bình khoảng 76%”.
Ngoài ra, khi tập trung quét toàn bộ gen nhằm xác định vùng nhiễm sắc thể ảnh hưởng, các nhà khoa học nhận thấy nhiễm sắc thể số 16 có khả năng liên quan đến rối loạn tăng động giảm chú ý.
Bệnh tặng động di truyền không? Gen di truyền chiếm 70 – 80% nguy cơ!
Nếu con bạn không may mắc phải chứng tăng động giảm chú ý, hãy liên hệ tới số 0962620043 (hoặc qua zalo) để được các chuyên gia tư vấn giải pháp điều trị an toàn, hiệu quả nhất hiện nay!
Các gen liên quan tới tính di truyền trong tăng động giảm chú ý
Theo tiến sĩ Banaschewski của viện Sức khỏe tâm thần trung ương Mannheim, Đức, khi thực hiện nghiên cứu trên các cặp trẻ sinh đôi và tập trung với một số gen cụ thể, kết quả cho thấy các gen liên quan đến hệ thống dẫn truyền thần kinh Dopaminergic có thể gây rối loạn tăng động chẳng hạn như: gen dopamine D4 (DRD4) và dopamine D5 (DRD5),… Một số hệ thống gen khác có liên quan bao gồm:
– Hệ thống Noradrenergic: NET1/SLC6A2, ADRA2A…
– Hệ thống Serotonergic: 5 – HTT/SLC6A4, HTR1B, HTR2A…
– Hệ thống thần kinh khả biến: SNAP25, CHRNA4, NMDA…
Tiến sĩ Mark Stein của Đại học Illinois, Chicago cho rằng sự khác biệt ở mỗi cá thể trong khả năng đáp ứng với thuốc điều trị tăng động cũng như mức độ cải thiện bệnh là do yếu tố di truyền. Vậy nên, hiểu rõ về gen giúp việc điều trị cho mỗi cá nhân trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn.
Tỉ lệ di truyền trong tăng động giảm chú ý
Các nghiên cứu xác định tính chất di truyền trong gia đình cho kết quả:
– Nếu cha mẹ tiền sử bị tăng động giảm chú ý, nguy cơ trẻ sinh ra mắc chứng bệnh này lên đến 50%. Tỉ lệ này tăng nhiều hơn khi chứng tăng động ở cha mẹ kéo dài đến tuổi trưởng thành.
– Nếu anh/chị/em của trẻ bị tăng động giảm chú ý, thì khả năng trẻ cũng mắc chứng bệnh này rơi vào khoảng 30%.
Vậy nếu chồng và con bạn mắc chứng tăng động giảm chú ý thì bé thứ hai của bạn cũng có nguy cơ mắc chứng bệnh này.
Ngoài ra, các bậc phụ huynh có thể lắng nghe chia sẻ của DS. Thu Trang– Trung tâm tư vấn tâm lý, bệnh tăng động ở trẻ em về yếu tố di truyền trong video sau:
Yếu tố di truyền của chứng tăng động giảm chú ý
Cách phòng ngừa tăng động giảm chú ý ngay từ giai đoạn đầu
Di truyền là một trong những yếu tố liên quan đến tăng động giảm chú ý mà hiện nay chưa có cách nào có thể thay đổi được. Tuy nhiên, còn rất nhiều nguyên nhân khác mà các bậc phụ huynh có thể thực hiện để phòng ngừa cho trẻ, chẳng hạn như:
– Phụ nữ có thai không nên sử dụng các chất kích thích như rượu, bia, ma túy, cà phê, thuốc lá; hạn chế tiếp xúc với môi trường nhiễm chì; tránh lạm dụng các thuốc giảm đau như paracetamon…
– Đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học, đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ: Tăng cường bổ sung acid béo Omega – 3 (cá hồi, cá ngừ, cá thu, hạt óc chó,…); hạn chế đường, các chất phụ gia bảo quan trong thực phẩm chế biến sẵn, thức ăn nhanh;…
– Khuyến khích trẻ tạo thói quen vui chơi, học tập theo một lịch trình rõ ràng.
Mẹ bầu nên tránh xa rượu, bia, thuốc lá để phòng ngừa tăng động cho trẻ
Phương pháp điều trị tăng động giảm chú ý an toàn, hiệu quả
Theo các chuyên gia, điều trị tăng động giảm chú ý không khuyến khích sử dụng thuốc tây mà chú trọng tới giáo dục hành vi và các sản phẩm từ thảo dược bởi những hiệu quả bền vững, lâu dài.
Liệu pháp giáo dục hành vi
Giáo dục hành vi cho trẻ tăng động giảm chú ý cần dựa trên các nguyên tắc sau:
– Thúc đẩy thói quen tốt bằng cách thường xuyên khen ngợi, khích lệ khi trẻ có những hành vi đúng đắn.
– Lập thời gian biểu cho các nhiệm vụ hằng ngày của trẻ một cách chi tiết, cụ thể và nhắc nhở con thực hiện đúng, giúp trẻ tăng khả năng tập trung, tổ chức, sắp xếp công việc.
– Khuyến khích con tham gia các hoạt động tập thể, các bộ môn nghệ thuật, âm nhạc, trò chơi ngoài trời… để con phát triển toàn diện hơn.
– Cho con thấy được những hậu quả của những hành vi không tốt để con hiểu và không thực hiện nữa.
– Thay vì trách mắng, quạt phạt trẻ, phụ huynh nên nhẹ nhàng khuyên bảo, nhắc nhở để giúp hiểu và làm tốt hơn ở những lần sau.
Sử dụng sớm sản phẩm hỗ trợ trị tăng động từ thảo dược
Qua nhiều nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy rằng não bộ của trẻ tăng động giảm chú ý đa phần đều có sự thiếu hụt GABA – chất dẫn truyền thần kinh ức chế, khiến trẻ khó kiểm soát cảm xúc, hành vi và thiếu tập trung chú ý. Bổ sung GABA cho não bộ là hướng đi mới được đánh giá cao, nhưng GABA là một chất khó vượt qua hàng rào máu não và sử dụng lâu dài có thể gây phụ lệ thuộc. Do vậy, các nhà khoa học khuyến khích sử dụng các thảo dược như An tức hương, Câu đằng có tác dụng trấn an tinh thần, hỗ trợ não bộ tăng tạo GABA nội sinh, ổn định hoạt động dẫn truyền thần kinh, giúp trẻ cải thiện triệu chứng tăng động giảm chú ý hiệu quả.
Hiện nay, cốm Egaruta là sản phẩm đầu tiên và duy nhất trên thị trường bào chế từ bộ đôi thảo dược Câu đằng, An tức hương kết hợp một số dưỡng chất thiết yếu cho não bộ như Taurine, Magie,… được các chuyên gia đánh giá cao và được nhiều phụ huynh tin tưởng, lựa chọn trở thành giải pháp hỗ trợ trị tăng động cho trẻ. Cùng lắng nghe chia sẻ của chị Hà (Điện Biên) để hiểu rõ những khó khăn trong quá trình trị bệnh cho con cũng như những cải thiện tích cực chỉ sau 2 tháng sử dụng cốm Egaruta trong video sau:
Kinh nghiệm trị tăng động cho con của chị Hà (Điện Biên)
Cũng như mọi yếu tố rủi ro khác, gen di truyền ở mỗi cá nhân chưa đủ để dẫn đến tăng động giảm chú ý, nhưng nó có thể làm tăng nguy cơ chung của trẻ. Do vậy, xác định rõ nguyên nhân và loại gen liên quan giúp kiểm soát bệnh tốt hơn.